Pháo thế kỷ 19 Súng_thế_kỷ_XIX

Pháo giá cứng hồi thế kỷ 19 ở châu Âu. Nếu tháo nòng ra thì thấy cấu tạo cổ điển của Hồ Nguyên Trừng, có hai ngõng pháo và tay nắm đuôi, ngòi gồm cốc mồi và ống dẫn nhỏ dài chống phụt. Vật liệu vẫn là gang xám đúc, nhiệt độ đổ khuôn cao, vẫn như thời An Nam Doanh, Thần Cơ Doanh của Thế kỷ 15.Súng thần công triều đình Huế

Lúc này ở châu Âu cũng đã có những súng cối, đại bác bắn trái phá (hay lựu pháo) và đại bác bắn thẳng. Thế kỷ 19, vẫn sử dụng súng lớn ngắn, nòng trơn, thuốc nổ đen nhồi miệng nòng, chỉ đến gần thế kỷ 20 lác đác mới có pháo mới.

Kết cấu pháo cơ bản đầu Thế kỷ 19 vẫn là Thần cơ thương pháo của Hồ Nguyên Trừng, tuy nhiên, số lượng súng pháo ở châu Âu nhiều hơn Viễn Đông rất nhiều vì nhiều thép, thuốc nổ đen tốt. Cuối Thế Kỷ 19 này, Thần cơ thương pháo mới đi vào dĩ vãng.

Kiểu cấu tạo này gọi là Pháo giá cứng. Toàn bộ nòng giá càng liền chặt với nhau. Khi bắn pháo lùi lại và các pháo thủ nạp đạn, rồi đẩy lên trước khi bắn. Để chỉnh tầm và hướng, pháo thủ quay bánh xe và chất đất lên càng.

Súng cối

cối Coehoorn của quân miền Nam hồi nội chiến Mỹ, điểm vượt sông Broadway, sông Appomattox, Tiểu bang VirginiaCối Thế Kỷ 19 vẫn vậy-chỉ thay bằng gang. Cấu tạo này còn dùng trong Thế kỷ 20. Trên tường thành Acre, Israel

Súng cối là các súng có tỷ lệ chiều dài nòng/đường kính trong nòng rất nhỏ, hiện nay tỷ lệ này của súng cối khoảng 10. Súng cối không cần giá càng phức tạp nhiều, vì đặt trên đế để đẩy phản lực xuống đất, đạn đi trên không khí loãng, nên súng cối nhẹ mà bắn được đạn nặng đi xa. Nhưng súng cối bắn không chính xác nên chỉ dùng bắn đạn trái phá theo diện tích. Cho đến đầu thế kỷ 20, súng cối vẫn rất nặng nề, thuộc nhóm súng cố định. Ngày nay tỷ lệ chiều dài nòng của súng cối từ 10-15-20, nhưng này đó chỉ dưới 5.

Cối thế kỷ 19 dùng kiểu cối Coehoorn do Menno van Coehoorn (1641-1704) chế tạo lạc hậu, rất khó vận chuyển. Henri-Joseph Paixhans có cải tiến cái hãm tầm, nhưng cả hai ông không thay đổi gì nhiều các cối phổ biến trong Thế kỷ 15 được quân Thổ truyền đến châu Âu.

Cối lúc đó có nòng rất ngắn, rất dày, có ngõng. Lực giật tác động vào ngõng rồi mới đến đế chứ không qua đuôi nòng vào đế như ngày nay. Các khẩu cối cố định vẫn được tiếp tục chế tạo. Khẩu cuối cùng có lẽ là cối Little David, Mỹ, tận những cuối Thế chiến II của Thế kỷ 20.

Đại bác bắn trái phá

Đại bác bắn trái phá, hay lựu pháo, (howitzer) là tên đặt cho loại pháo nhồi ít thuốc nổ thời cận đại, bắn đạn "đập đất", tức đạn chạm đất nẩy lên. Trái với pháo bắn thẳng chống tăng ngày nay thường nhồi nhiều thuốc. Tác dụng trên chiến trường của howitzer cũng giống pháo bắn thẳnglựu pháo nòng ngắn ngày nay, bắn các mục tiêu nhìn thấy. Lúc đó, để bắn trái phá góc thấp không thể nhồi nhiều thuốc đẩy, sẽ làm đạn vỡ nổ ngoài ý muốn.

Lúc đó, đạn trái phá thường bắn bằng súng cối hay súng góc cao để được tầm xa, hạn chế sơ tốc (làm đạn trái phá phát nổ) và giá súng, nhưng không chính xác. Howitzer bắn đạn trái phá góc thấp để tăng khả năng sát thương bộ binh di động, sử dụng phương pháp bắn trên để tăng thêm tầm, hạn chế sơ tốc và giá pháo. Howitzer có chiều dài nòng nhỉnh hơn cối một chút. Howitzer ngày đó là tổ tiên của lựu pháo ngày nay.

Đại bác bắn đạn xuyên

Gọi là bắn đạn xuyên nhưng thực chất đạn cầu tốc độ thấp chỉ đập vỡ được tường thành. Tuy loại pháo này vẫn như thời cổ đại nhưng cũng làm các công sự kiểu thành quách đến lúc nay lạc hậu. Tỷ lệ chiều dài nòng/cỡ nòng nay gọi là CaL hoặc L. Cấu tạo pháo bắn thẳng ngày đó rất đơn giản, chả giá pháo ngõng ngáng khối lùi gì hết, nòng-giá liên kết thành một khối đặt trên bánh, ngày nay còn gọi là "pháo giá cứng". Mỗi lần bắn, súng lùi về sau, pháo thủ lại đẩy về trước. Đạn và thuốc nhồi từ miệng nòng. Đạn bi gang dùng để công thành, sau trận đánh, khi đã chiếm được thành, người ta đi nhặt các viên đạn này dùng lại. Đạn ria đặt trong các hộp, nhồi cả hộp vào nòng, đạn ria là các mảnh gang sát thương.

Thế kỷ 19 đánh dấu việc dùng nòng gang, thép thay thế cho nòng đồng và mồi lửa hạt nổ thay thế dần cho mồi lửa ngòi châm, mồi lửa đá lửa. Súng vẫn được sản xuất thủ công, đơn chiếc và dùng thuốc nổ đen.

Công Thành Pháo

Những khẩu Đại bác bắn đạn xuyên lớn nhất được gọi là Công Thành Pháo Siege, những khẩu pháo công thành lớn nhất thời cổ do Ấn ĐộThổ Nhĩ Kỳ làm, nay vẫn còn. Thuận lợi của nguyên liệu Trung Á sau này thúc đẩy châu Âu hoàn thiện súng.

Dã pháo, pháo bãi, trường pháo, nhân pháo.

Cuối Thế kỷ 18 đầu Thế kỷ 19, xuất hiện Dã Pháo field-gun, được dùng nhiều trong các cuộc chiến lớn như chiến tranh Lập Quốc Mỹ và chiến tranh của Napoleon. Dã pháo là loại pháo bắn đạn ria hay trái phá sát thương. Mục tiêu nhiệm vụ là pháo phải di chuyển theo bộ binh và thực hiện những yêu cầu của bộ binh, thường là bắn bộ binh địch và nhà cửa không kiên cố.

Pháo thường nhỏ gọn, dễ dàng được người kéo, dễ xoay hướng, không cần bắn xa. Tuy nhiên, các dã pháo đầu tiên vẫn là pháo giá cứng. Do yêu cầu như vây nên pháo tường có tầm rất gần-nòng ngắn, ngược hẳn với dã pháo hiện tại.

Dã pháo là gọi tắt của pháo dã chiến. Cũng được gọi là pháo hỗ trợ. Nhân pháo vì di chuyển bằng người.

Hải pháo Paixhans

Hải pháo Henri-Joseph Paixhans trong Bảo tàng Hải quân Quốc gia Pháp, Musée national de la Marine

Hồi Nội chiến Mỹ, xuất hiện các pháo trung gian giữa thần công thời cổ và pháo hiện đại. Đây là các pháo đặt ở mũi tuần dương hạm, còn gọi là "hải pháo". Chúng có ngõng ngáng tầm hướng, có nòng xoắn, khóa nòng xoay ren. Nhưng vì chưa có thuốc nổ chậm, dùng thuốc nổ đen nên nòng rất dày, đạn cỡ nhỏ, trông khẩu súng ngắn tũn gù lưng rất xấu. Kết cấu này phát triển thành cỗ máy chiến đấu dùng súng thay thế các tuần dương hạm cổ, đó là các tàu thiết giáp.

Hải pháo gắn liền với tên tuổi Henri-Joseph Paixhans người Pháp. Ông đã tìm ra phương pháp sử dụng tối đa thuốc nổ đen trong liều phóngtrái phá để không còn sợ nổ trước như howitzer. Thử nghiệm đầu tiên năm 1824, đến năm 1840, có đơn đặt hàng đầu tiên súng nòng nặng 5 tấn. Nga là nước đầu tiên sử dụng Hải Pháo trong chiến tranh trên Biển Đen với Thổ. Trong thập niên 1840, các nước lớn Pháp, Anh, Mỹ đã đặt hàng hải pháo này theo Nga. Cùng với việc đặt trên tàu, hải pháo cũng được đặt trên các giá quay chỉnh được tầm hướng, nhưng không lùi, dùng bắn đạn hải quân, đặt trong những pháo đài dùng chống tàu. Hải pháo thừa kế "tên pháo cố định" thời cổ.

Nội chiến Mỹ đem đến cơ hội hiện đại hóa hải pháo và pháo nói chung. Các tàu quân Nam (Hiệp ước, CSS) dùng hải pháo lạc hậu hơn, tàu có giá pháo nhưng chỉ thay đổi được tầm ngắm và vẫn nạp đạn trước, không hoàn thiện giáp và tháp pháo các tàu bọc thép. Cuối thế kỷ 19 khóa nòng đã phổ biến.

Sơn pháo, súc pháo.

Lúc đó cơ giới còn yếu, nên có sơn pháo, đấy là một pháo hạng nhẹ, nòng rất ngắn và mỏng, đặt trên giá pháo nhẹ có các bánh xe to để dễ kéo trên núi (L rất thấp, chỉ 10-20, gần như súng cối). Sơn pháo và hải pháo lúc đó thường áp dụng kỹ thuật bắn trực tiếp như pháo bắn thẳng ngày nay, tầm rất gần. Sơn pháo nhiều nơi còn gọi là pháo dã chiến, thừa kế tên "field gun"=dã pháo cổ, chỉ khác người kéo và bò kéo.

Sau Thế chiến thứ hai hình thành súng hiện đại.